Truy cập nội dung luôn

Di sản hán nôm ở quảng ngãi: giá trị, thực trạng và giải pháp bảo tồn.

28/04/2020 16:54    1192

1. Khái lược Quảng Ngãi là một vùng đất có lịch sử hình thành và phát triển khá lâu đời. Cùng với sự hình thành vùng đất, di sản Hán Nôm với các hình thức tồn tại của chúng, đã đồng hành cùng người Việt đi mở cõi, khai hoang, lập nghiệp, xây dựng quê hương, đất nước, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, di sản Hán Nôm ngày càng bổ sung nhiều loại hình, có mặt ở hầu hết các làng xã đồng bằng, ven biển, hải đảo trong tỉnh, là phương tiện duy nhất điều hành xã hội trong suốt 5, 6 thế kỷ, trước khi chữ Quốc ngữ ra đời và dần dần thay thế chữ Hán, chữ Nôm ở vùng đất này, cũng như ở cả nước.

Trước nguy cơ di sản Hán Nôm bị lụi tàn nhanh chóng, trong suốt nhiều năm qua, đã có một số ít người, đơn lẻ, quan tâm đi tìm dấu tích của tiền nhân, mà trong đó chứa đựng nhiều giá trị, qua những trang ghi chép bằng chữ Hán, chữ Nôm trên nhiều chất liệu khác nhau. Nhưng đó là công việc không hề dễ dàng, vì nhiều lý do khác nhau, do vậy cho đến nay, vẫn chưa có một tổ chức, hay cá nhân nào có thể tiến hành sưu tầm, dịch thuật, phân loại, đánh giá một cách toàn diện di sản Hán Nôm còn ẩn tàng trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, để có thể bảo tồn, phát huy giá trị của chúng trong đời sống xã hội. Bởi vậy, mục tiêu của đề tài "Sưu tầm, dịch thuật, phân loại, đánh giá các tư liệu Hán Nôm ở Quảng Ngãi" mà chúng tôi được giao nhiệm vụ tổ chức thực hiện cũng chỉ nhằm hướng tới các vấn đề vừa nêu một cách cẩn trọng nhất, trong điều kiện và khả năng có hạn, bằng những phương pháp và kỹ thuật sử dụng được kế thừa từ những người đi trước. Do thời gian tiến hành trong 2 năm, cũng như nguồn lực và năng lực, nên những người thực hiện đề tài chỉ dừng lại ở việc phân loại, tổ chức dịch thuật một số tài liệu tiêu biểu; trình bày các vấn đề chung về lịch sử, nguồn gốc hình thành cư dân, vì chúng có liên quan đến sự hình thành di sản Hán Nôm; một số nét tổng quan về di sản Hán Nôm hiện còn trên địa bàn tỉnh; các loại hình văn bản Hán Nôm tiêu biểu; thực trạng, các giá trị đặc trưng và một số giải pháp bảo tồn.

Điền dã tại mộ Ân Quang Hầu Trần Công Hiến, Bình Dương, Bình Sơn, cùng Giáo sư Tiến sĩ Ngô Đức Thịnh,  nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng, cộng tác viên Hán Nôm Lâm Dũ Xênh.

Điền dã tại mộ Ân Quang Hầu Trần Công Hiến, Bình Dương, Bình Sơn, cùng Giáo sư Tiến sĩ Ngô Đức Thịnh, nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng, cộng tác viên Hán Nôm Lâm Dũ Xênh.

Với số lượng ước tính, trong 2 năm qua, chúng tôi đã sưu tầm được khoảng 20.000 trang tài liệu chữ Hán, chữ Nôm, hiện được lưu giữ chủ yếu trong nhà thờ nhiều dòng họ ở các huyện đồng bằng, ven biển, thành phố Quảng Ngãi, và huyện đảo Lý Sơn. Có thể con số sẽ còn tăng lên nhiều, nếu có thời gian và các nguồn lực khác nhau.

2. Về các loại hình

Về loại hình, di sản Hán Nôm tìm thấy trong địa bàn tỉnh bao gồm các loại hình: Sắc phong, chế phong, chiếu, chỉ, dụ, bằng cấp, đơn từ, khế ước, địa bạ, điền bạ, sổ đinh, hương ước, văn bia, gia phả, hoành phi, câu đối, mộc bản... (chưa kể sách thuốc, thơ văn, sách cúng...). Trong đề tài này, chúng tôi chỉ tập trung giới thiệu một số loại hình tiêu biểu:

 Về sắc phong, có nhiều loại sắc phong ban cho các quan chức trấn nhậm ở địa phương, cho hằng trăm làng xã thờ phụng các thiên thần, nhiên thần, thủy thần, nhưng nhiều nhất là các nhân thần - là những người có công lớn trong buổi đầu khai phá đất đai, mở rộng cương vực lãnh thổ, như Bùi Tá Hán, Mai Đình Dõng, Lương Văn Chánh..., hoặc những người có công trong việc tổ chức dân binh khai phá tại các làng xã. Đây là điểm khác biệt sắc phong ở Quảng Ngãi so với sắc phong các địa phương khác trong cả nước. Qua việc chú trọng ban sắc phong cho các công thần, chứng tỏ các triều đại chú trọng vinh danh các bậc tiền nhân, thể hiện đạo lý uống nước nhờ nguồn, tạo ra sự kết nối cộng đồng, mặt khác, còn xác lập quyền lực của nhà nước phong kiến Việt Nam ở mảnh đất phía Nam, và nhờ đó, góp phần quan trọng trong việc mở rộng cương vực lãnh thổ. Hay có thể nói sâu xa hơn: Thần Việt ở đâu thì đất Việt ở đó. 

Về chế phong, chỉ, dụ, các loại bằng cấp còn lại trong tỉnh Quảng Ngãi chủ yếu có niên đại thời Nguyễn, nằm rải rác các nơi, liên quan đến các danh thần là người Quảng Ngãi, như Trần Công Hiến, Trương Đăng Quế, Nguyễn Bá Nghi, Đỗ Đăng Đệ,... trong đó có một số liên quan đến các cai đội, chánh thủy quân đội trưởng đi Hoàng Sa hoặc tuần phòng canh giữ vùng biển đảo. Trong thể loại này, các có những bản Thị tỷ được ban rất sớm, ngay từ thời Quang Hưng (cuối thế kỷ thứ 16), như Thị tỷ ban cho Trần Cẩm, mà sau khi so sánh với các địa phương khác, như ở Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Bình Định..., thì các Thị tỷ này có niên đại sớm nhất, và cũng là văn bản cổ nhất được tìm thấy ở vùng đất dọc dải miền Trung này. 

Về hoành phi, câu đối, chủ yếu còn lại tại các cơ sở thờ thờ tự, như đình, chùa, đền, miếu, nghĩa từ, nhà thờ họ. Hoành phi, câu đối không chỉ là vật trang trí mà còn chứa đựng những ước vọng của tiền nhân hoặc ca ngợi cảnh đẹp quê hương, xứ sở, phát huy truyền thống, đề cao đạo đức, khuyên dạy con cháu... 
Về gia phả, nhiều bộ gia phả tìm thấy còn khá nguyên vẹn, dày đến vài trăm trang, như Trương tộc thế phả ở làng Mỹ Khê, ghi chép khá chi tiết từng tiểu sử các danh thần, như Trương Đăng Quế, Trương Quang Đản, Trương Văn Để... Mặc dầu, gia phả chỉ lưu truyền trong dòng họ, nhưng có thể giúp chúng ta hiểu biết về lịch sử hình hành cư dân và các làng xã qua các thời đại, nguồn gốc xuất thân các danh thần, các nhân vật lịch sử, môi trường xã hội hình thành các tài năng. Gia phả Hán Nôm trên địa bàn tỉnh, chủ yếu được biên soạn dưới thời Bảo Đại. 

Nhóm thực hiện đề tài thu thập tài liệu Hán Nam tại nhà ông Nguyễn Quang Bề, An Vĩnh, Lý Sơn.

Nhóm thực hiện đề tài thu thập tài liệu Hán Nam tại nhà ông Nguyễn Quang Bề, An Vĩnh, Lý Sơn.

Về văn bia, văn bia Hán Nôm còn lại trong tỉnh Quảng Ngãi có niên đại từ thế kỷ 18 đến thế kỷ thứ 20, bao gồm các loại văn bia tại các mộ chí, từ đường, chùa, đền, miếu, đình, hội quán, đập thủy lợi, văn từ, chủ yếu bằng chất liệu đá. Tiêu biểu nhất là các văn bia tại mộ và nhà thờ họ Trương làng Mỹ Khê. Văn bia Hán Nôm trong tỉnh Quảng Ngãi phản ánh nhiều vấn đề của xã hội đương thời, như phát triển kinh tế, giao thương; ghi tiểu sử, hành trạng, công đức của các bậc tiền nhân; việc đóng góp xây dựng chùa, đình, đền, miếu; truyền thống hiếu học, khoa cử... 

Về các văn bản đất đai, có các loại: địa bạ, điền bạ, khế ước, đơn từ... Trong số gần 500 văn bản đất đai bằng chữ Hán mà chúng tôi đã tìm thấy, có những văn bản đất đai được lập từ thời Hoằng Định, Vĩnh Hựu và muộn nhất là những năm 70 của thế kỷ thứ 20. Riêng về địa bạ, có địa bạ làng Chánh Lộ là địa bạ còn lại đặc biệt quý hiếm, dày đến đến hàng nghìn trang, ghi chép kỹ lưỡng từng thửa đất của từng ấp, từng dòng họ sinh sống tại đây từ trước cho đến năm 1932 và địa bạ Cù Lao Ré lập năm Giáp Dần (1734) - là địa bạ cổ nhất mà chúng tôi tìm thấy được. Ngoài ra, còn có văn bản bán đứt 3 thửa đất ở Lý Sơn để lấy tiền cho binh phu Lý Sơn, phối hợp cùng thủy quân đi làm nhiệm vụ ở Hoàng Sa thời Gia Long. Địa bạ, điền bạ, các văn bản đất đai khác là loại tài liệu đặc biệt quý giá, giúp cho chúng ta nhận diện lịch sử khai phá đất đai, việc quản lý đất đai cũng như tài nguyên đất nước trong suốt chiều dài lịch sử nhiều thế kỷ; hiểu biết thêm về lịch sử hình thành làng xã, về các địa danh và sự thay đổi các địa danh ở các địa phương; về sự tồn vong và không ngừng phát triển của quốc gia, dân tộc; về công lao to lớn của nhiều thế hệ. 

Về văn tế, văn tế Hán Nôm còn lại trên địa bàn tỉnh còn lại tương đối phong phú, phản ánh chân thực đời sống văn hóa, tín ngưỡng của cộng đồng cư dân ở các làng xã. Nhiều bài văn tế không chỉ riêng về thiên thần, nhiên thần, mà còn có cả các nhân thần trong cùng bài văn tế, thể hiện sự tri ân, tôn vinh những người có công lao với quê hương, đất nước, với vùng biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa.

3. Nhận diện một số giá trị cơ bản

Di sản Hán Nôm còn lưu giữ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi chứa đựng nhiều hệ giá trị.

Về lịch sử, những tư liệu Hán Nôm tìm thấy được trong những năm qua góp phần quan trọng trong việc bổ sung vào chính sử, trong đó nổi bật là phản ánh khá trung thực những con người một thời đi dựng nước, giữ nước, trong buổi đầu khai phá đầy khó khăn, gian khổ, mà tên tuổi, sự nghiệp, công lao của nhiều người chưa được sử sách đề cập đầy đủ, hoặc chưa từng được đề cập, chưa từng được vinh danh. Tư liệu Hán Nôm tìm thấy còn góp phần làm sáng rõ thêm hành trạng, sự nghiệp, nhân cách của những danh thần triều Nguyễn, mà trong các bộ chính sử đã từng ghi chép, nhưng chưa đầy đủ. 

Trong hàng nghìn trang tư liệu tìm thấy cũng phản ánh trung thực những chặng đường phát triển kinh tế - xã hội, bao gồm quá trình khai hoang, vỡ hóa, việc ổn định đời sống nhân dân trong nhiều thời kỳ lịch sử, chính sách ruộng đất công, ruộng đất tư; thuế khóa, như thuế đinh, thuế điền, thuế biệt nạp, thuế dung; việc giao thương trên biển vốn từng thịnh hành, sầm uất ở vùng ven biển Quảng Ngãi, đặc biệt là tại cửa biển Sa Kỳ, Cổ Lũy... 

Sắp xếp tư liệu trước khi tiến hành sao chụp.

Sắp xếp tư liệu trước khi tiến hành sao chụp.

Cùng với lịch sử hình thành vùng đất, tư liệu Hán Nôm còn phản ảnh chiều sâu cội nguồn văn hóa dân tộc, về tín ngưỡng, phong tục, tập quán, đạo lý "uống nước nhớ nguồn", nhất là qua hương ước của các làng xã; phản ánh những thay đổi về hành chính và việc quản lý hành chính tại địa phương qua nhiều thời kỳ lịch sử; góp phần nhận diện chính sách vỗ yên dân chúng, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của các triều đại, bao gồm chính sách đối với dân tộc thiểu số, chính sách đối với biên cương, sự quản lý người Hoa, việc khẳng định và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trên vùng biển đảo...

4. Thực trạng và giải pháp bảo tồn

Qua điều tra, khảo sát trong nhiều năm qua, chúng tôi nhận thấy di sản Hán Nôm trên địa bàn tỉnh cũng đang có nguy cơ mai một nhanh chóng, vì hư hỏng, rách nát, vì thiếu hiểu biết, vì vô tình hay cố tình làm sai lệnh tư liệu. Vì vậy, công tác bảo tồn là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách và phải cần đến nhiều giải pháp khác nhau, như về nâng cao nhận thức; cách thức bảo quản tài liệu, trao đổi tài liệu; đưa vào chương trình giảng dạy tại địa phương; có chính sách đào tạo, khuyến khích đội ngũ làm công tác quản lý, nghiên cứu, sưu tầm tư liệu Hán Nôm; tăng cường công tác tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu về giá trị nguồn tư liệu Hán Nôm; đa dạng hóa và đổi mới các hình thức khai thác, sử dụng tư liệu Hán Nôm tại các thư viện...
 Để có thể nghiên cứu toàn diện, đầy đủ tư liệu Hán Nôm có liên quan, hoặc ở Quảng Ngãi hoặc về Quảng Ngãi, ngoài những vấn đề được nêu ở trên, chúng tôi xin nêu ở đây một vài khuyến nghị:
- Cần tiếp tục bổ sung nguồn kinh phí để nhóm thực hiện đề tài phối hợp với Viện Nghiên cứu Hán Nôm tổ chức khai thác những tài liệu còn lưu trữ tại Viện và ở các Trung tâm lưu trữ, các thư viện khác ở cả nước (vì hiện nay số tài liệu Hán Nôm liên quan đến đất nước, con người Quảng Ngãi còn lưu giữ tại các nơi này rất nhiều mà chưa có điều kiện nghiên cứu, phân loại, dịch thuật, đánh giá...).

- Mặc dầu, trong hai năm qua, nhóm đề tài đã nỗ lực đi sưu tầm tư liệu, nhưng chắc chắn nguồn tư liệu này vẫn còn rải rác tại các địa phương, vì vậy đề nghị cơ quan có chức năng tiếp tục tạo điều kiện để nhóm đề tài và các chuyên gia tiếp tục khảo sát; lựa chọn thêm các văn bản có giá trị trong nguồn tài liệu đã sưu tầm, lẫn nguồn tài liệu sưu tầm bổ sung để dịch, chú giải, đánh giá. 

- Để kịp thời giới thiệu kết quả nghiên cứu, giúp cho các cơ quan, các địa phương, các nhà nghiên cứu, sinh viên  học sinh tìm hiểu về lịch sử, văn  hóa địa phương (hiện các trường đang có chương trình học lịch sử, văn hóa địa phương), đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh cần bổ sung nguồn kinh phí cho Sở Khoa học và Công nghệ hoặc nhóm thực hiện đề tài để tổ chức xuất bản công trình này (qua một nhà xuất bản) sau khi được biên tập, được các chuyên gia hiệu đính bản thảo.

Đại biểu chụp ảnh lưu niệm tại Hội thảo cấp tỉnh Tư liệu Hán Nôm ở Quảng Ngãi - Giá trị, thực trạng và giải pháp bảo tồn.

Đại biểu chụp ảnh lưu niệm tại Hội thảo cấp tỉnh Tư liệu Hán Nôm ở Quảng Ngãi - Giá trị, thực trạng và giải pháp bảo tồn.

- Đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần có văn bản chỉ đạo các địa phương khuyến khích các dòng họ, ban quản lý các di tích tăng cường bảo quản tài liệu Hán Nôm còn lưu trữ; khen thưởng cho những dòng họ, ban quản lý các di tích bảo quản và phát huy tốt tư liệu Hán Nôm có giá trị trong dòng họ, trong di tích; bố trí nguồn kinh phí mời các cơ quan chuyên môn ở trung ương, ở các trung tâm lưu trữ, về tỉnh giúp đỡ, phối hợp trong việc bảo quản, phục hồi các tài liệu Hán Nôm trong tỉnh, mà trước hết là các tài liệu Hán Nôm có giá trị nhưng đang trên đà mối mọt, hư hỏng nhanh chóng. Mặt khác, cũng cần tổ chức các lớp tập huấn giới thiệu giá trị tài liệu Hán Nôm và cách thức bảo quản, phát huy giá trị các tư liệu vô giá này.

TS. NGUYỄN ĐĂNG VŨ

Theo Bản tin KH&CN số 01/2020.

Tin liên quan

Thống kê truy cập

Số lượt truy cập: 1632

Tổng số lượt xem: 4288452